08/06/2022
Giá trị cuộc sống
STELLAPHARM sinh ra là để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho người bệnh, giúp tăng cường đảm bảo chất lượng cuộc sống của mọi người. Sức khỏe của bạn, cho hôm nay và tương lai.
Khi chúng ta tiêu thụ thực phẩm có chứa carbohydrate, hệ tiêu hóa của chúng ta sẽ phân hủy những thành phần có thể tiêu hóa thành đường và đường này di chuyển vào máu.
Chỉ số đường huyết (glycemic index – GI)
Trước đây, carbohydrate thường được phân loại là “loại đơn giản” hoặc “loại phức tạp” và được mô tả như sau:
Những carbohydrate này bao gồm đường (chẳng hạn như fructose và glucose) có cấu trúc hóa học đơn giản chỉ bao gồm đường đơn (monosaccharide) hoặc đường đôi (disaccharide). Carbohydrate đơn giản được cơ thể sử dụng dễ dàng và nhanh chóng để tạo năng lượng do cấu trúc hóa học đơn giản của chúng, từ đó thường dẫn đến tăng sự nhanh lượng đường trong máu cũng như thúc đẩy sự bài tiết insulin của tuyến tụy. Những điều này có thể gây ra các tác động tiêu cực đến sức khỏe.
Những carbohydrate này có cấu trúc hóa học phức tạp hơn, với ba hoặc nhiều đường liên kết với nhau (được gọi là oligosaccharide và polysaccharide). Nhiều loại thực phẩm có carbohydrate phức tạp chứa chất xơ, vitamin, khoáng chất và những loại thực phẩm như thế cần nhiều thời gian hơn để tiêu hóa. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ít tác động ngay lập tức đến lượng đường trong máu, vì thế khiến đường huyết tăng chậm hơn. Nhưng những thực phẩm khác với tên gọi carbohydrate phức tạp như bánh mì trắng và khoai tây trắng lại chứa chủ yếu là tinh bột, ít chất xơ hoặc các chất dinh dưỡng có lợi khác.
Tuy nhiên, việc phân chia carbohydrate thành loại đơn giản và phức tạp không giải thích được ảnh hưởng của carbohydrate đối với đường huyết và các bệnh mạn tính. Để giải thích cách thức mà các loại thực phẩm giàu carbohydrate khác nhau ảnh hưởng trực tiếp đến lượng đường huyết, khái niệm ‘chỉ số đường huyết’ đã được phát triển và được xem là cách tốt hơn để phân loại carbohydrate, đặc biệt là thực phẩm giàu tinh bột.
Chỉ số đường huyết xếp loại carbohydrate theo thang điểm từ 0 – 100 dựa trên mức độ và tốc độ chúng làm tăng đường huyết sau khi ăn. Những thực phẩm có chỉ số đường huyết cao – như bánh mì trắng – được tiêu hóa nhanh chóng và gây ra sự dao động đáng kể về lượng đường trong máu. Những thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp – như yến mạch nguyên hạt – được tiêu hóa chậm hơn, vì thế khiến lượng đường trong máu tăng chậm hơn.
Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến chỉ số đường huyết của thực phẩm, bao gồm:
Tải lượng đường huyết (glycemic load – GL)
Có một điều mà chỉ số đường huyết của thực phẩm không cho chúng ta biết, đó là thực phẩm đó chứa bao nhiêu carbohydrate có thể tiêu hóa được, đây chính là tổng lượng carbohydrate không bao gồm chất xơ. Đó là lý do tại sao các nhà nghiên cứu đã phát triển một cách khác có liên quan đến vấn đề này để phân loại thực phẩm mà ở đó, có tính đến cả lượng carbohydrate của thực phẩm trong mối liên hệ đến tác động của nó đối với lượng đường trong máu. Con số đo lường này được gọi là tải lượng đường huyết (chú thích: GI là thước đo chất lượng của carbonhydrat, còn GL là thước đo số lượng carbonhydrat có mặt trong loại thực phẩm đó). Tải lượng đường huyết của thực phẩm được xác định bằng cách nhân chỉ số đường huyết của nó với lượng carbohydrate trong thực phẩm đó. Nhìn chung, tải lượng đường huyết từ 20 trở lên là cao, từ 11 – 19 là trung bình và từ 10 trở xuống là thấp.
Việc tính toán tải lượng đường huyết đã được sử dụng để nghiên cứu xem liệu chế độ ăn có tải lượng đường huyết cao có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 và các biến cố tim mạch hay không. Trong một phân tích tổng hợp lớn trên 24 nghiên cứu thuần tập tiền cứu, các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng những người tiêu thụ chế độ ăn có tải lượng đường huyết thấp có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 thấp hơn so với những người tiêu thụ chế độ ăn với những thực phẩm có tải lượng đường huyết cao hơn. Một phân tích tổng hợp tương tự đã kết luận rằng chế độ ăn có tải lượng đường huyết cao cũng có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các biến cố của bệnh tim mạch vành.
Sau đây là danh sách các loại thực phẩm có lải lượng đường huyết thấp, trung bình và cao. Để có sức khỏe tốt, hãy chọn thực phẩm có tải lượng đường huyết thấp hoặc trung bình và hạn chế thực phẩm có tải lượng đường huyết cao.
Tải lượng đường huyết thấp (không quá 10)
Tải lượng đường huyết trung bình (từ 11 – 19)
Tải lượng đường huyết cao (từ 20 trở lên)
Nguồn: Harvard T.H. Chan School of Public Health
STELLAPHARM là một trong những công ty dược phẩm hàng đầu và là nhà sản xuất thuốc kháng virus tại Việt Nam. Công ty được thành lập vào năm 2000 tại Việt Nam; và chúng tôi chú trọng vào các thuốc kê đơn và thuốc không kê đơn đặc biệt trong điều trị các bệnh liên quan tim mạch, kháng virus, bệnh tiểu đường, v.v… và sản phẩm của công ty đang được sử dụng bởi hàng triệu bệnh nhân tại hơn 50 nước trên thế giới.
Công ty được chứng nhận toàn cầu về chất lượng thông qua việc các nhà máy sản xuất của công ty đã được thanh tra và phê duyệt bởi các cơ quan có thẩm quyền như cơ quan quản lý thuốc Châu Âu (EMA), cục Dược phẩm và thiết bị Y tế Nhật Bản (PMDA), cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Đài Loan (Taiwan FDA), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), và các tổ chức, cơ quan khác.
Để biết thêm thông tin về bài viết:
Công ty TNHH Liên Doanh Stellapharm – Chi nhánh 1 | 40 Đại lộ Tự Do, VSIP, P. An Phú, Thành phố Thuận An, Bình Dương
T: +84 274 376 7470 | F: +84 274 376 7469 | E: info@stellapharm.com | W: www.stellapharm.com
TĂNG ĐƯỜNG HUYẾT 1. Cafein Lượng đường trong máu có thể tăng lên sau khi bạn uống cà phê – ngay cả với cà phê đen không chứa calo – do thành phần cafein. Tương tự đối với trà đen, trà xanh và nước tăng lực. Cách mà mỗi bệnh nhân tiểu đường đáp ứng
Nắm rõ chỉ số đường huyết Kiểm tra lượng đường trong máu ít nhất một lần mỗi ngày bằng máy đo đường huyết và ghi lại các kết quả đo. Biết được chỉ số nào là bình thường, cao và thấp. Bạn sẽ có thể phát hiện mô hình biến động trong mức đường huyết
Nếu giống với hầu hết mọi người, có thể bạn sẽ nghĩ rằng những thực phẩm chứa nhiều cholesterol chính là ‘thủ phạm’ gây hại nhiều nhất cho mức cholesterol của cơ thể bạn. Nhưng điều này không đúng. Bởi vì vấn đề không thực sự nằm ở lượng cholesterol trong thực phẩm. Hầu hết