BIG PHARMA & CHIÊU TRÒ GIỮ LỢI NHUẬN THUỐC “BOM TẤN”

Khi thời hạn bảo hộ bản quyền của những dòng thuốc chủ lực sắp hết, các hãng dược lớn đều đã tính toán kỹ lưỡng lộ trình của họ với nhiều chiến lược khác nhau nhằm duy trì doanh thu và nhuận khổng lồ càng lâu càng tốt.

Hãng dược lớn nào cũng có một vài dòng thuốc “bom tấn” (blockbuster drug) – được định nghĩa là loại thuốc mang lại doanh thu theo năm ít nhất là 1 tỉ USD cho nhà sản xuất.

Tuy nhiên luật pháp Mỹ quy định thuốc “bom tấn” chỉ được giữ bản quyền trong một thời hạn nhất định, sau đó phải nhường lại sân chơi cho các dòng generic và thuốc tương tự sinh học (biosimilar), thường có giá rẻ hơn, nghĩa là giúp người bệnh có nhiều lựa chọn tốt hơn.

Nhưng các ông lớn dược phẩm (Big Pharma) không dễ ngồi yên nhìn doanh thu cao ngất lao dốc.

Từ nay cho đến năm 2030, các hãng dược hàng đầu thế giới như Merck, Bristol Myers Squibb, AbbVie và Johnson & Johnson đều sẽ đối mặt với cái gọi là patent cliff, khi doanh thu lao dốc – như rơi khỏi vách đá (cliff) – vì bằng sáng chế (patent) hết hạn bảo hộ.

Rất nhiều trong số các thuốc bom tấn là các thuốc được thiết kế ở dạng phân tử nhỏ (small-molecule drug). Theo Matt Phipps, chuyên gia phân tích công nghệ sinh học tại ngân hàng đầu tư William Blair, khi một loại thuốc phân tử nhỏ hết bản quyền, nó có thể làm sụt giảm doanh thu tới 80% trong một năm.

Tuy nhiên trong một loạt loại thuốc sẽ hết bản quyền tới đây còn có các liệu pháp sinh học – một lớp thuốc được phát triển từ các nguyên liệu sống như máu, protein, cây và vi sinh vật.

Những thuốc này thường được truyền tĩnh mạch hoặc tiêm. Do việc sao chép chúng phức tạp hơn nên tốc độ sụt giảm doanh thu của chúng sau khi hết bản quyền cũng khác so với các thuốc phân tử nhỏ.
Sự tổn thất kinh tế từ hết hạn bản quyền thuốc có thể tác động khác nhau với mỗi công ty, tùy vào việc thuốc đó chiếm tỉ lệ bao nhiêu trong tổng doanh thu của công ty và thuốc đó trị bệnh gì.

Theo ước tính của Ernst & Young, 20 doanh nghiệp dược phẩm sinh học hàng đầu có nguy cơ tổn thất tổng cộng 180 tỉ USD trong khoảng từ nay cho tới năm 2028 do ảnh hưởng từ “vách đá hết bản quyền”.

Thực tế cho thấy các hãng dược khổng lồ luôn có một khoảng thời gian dài để chuẩn bị ứng phó với chuyện hết độc quyền thuốc bom tấn. Nói như Phipps, điều này “đã luôn là một phần của hệ sinh thái trong thế giới công nghệ sinh học”. Vấn đề là đối phó thế nào?

“Bước đầu tiên luôn là cố gắng tối đa hóa những gì bạn đang có” – Phipps nói. Đơn giản là vì 6 tháng của một loại thuốc 10 tỉ USD giá trị hơn nhiều so với 6 tháng triển khai một liệu pháp mới.

Vì các loại thuốc đều được cấp bản quyền từ nhiều năm trước khi được cơ quan có thẩm quyền cấp phép lưu hành trên thị trường, nên các hãng dược sẽ cố gắng mở rộng ưu thế độc quyền của họ càng nhiều càng tốt.

Để làm vậy, họ sẽ nộp hồ sơ đăng ký bản quyền không phải chỉ với thuốc, mà còn với quá trình sản xuất, thậm chí với cả cách sử dụng thuốc ấy. Tất cả những bản quyền này cộng gộp lại với nhau để tạo nên lá chắn thời gian vững chắc giúp trì hoãn thời gian để thuốc generic hay thuốc biomimilar có thể gia nhập thị trường.

Một ví dụ thực tế: AbbVie đã vận dụng chiến lược “bức tường bản quyền” này với thuốc bom tấn Humira – một liệu pháp sinh học dùng để điều trị bệnh viêm khớp và các chứng tự miễn khác để lèo lái qua thời kỳ bằng sáng chế ở Mỹ hết hạn năm 2016.

Cho tới năm ngoái, nghĩa là 7 năm sau khi lẽ ra phải “rơi xuống vách đá”, doanh thu Humira vẫn đạt 14,4 tỉ USD bất kể sự xuất hiện của các loại thuốc biosimilar. Nhưng cũng vì chiến lược đó mà AbbVie trở thành một trong những ông lớn dược phẩm bị chỉ trích và gây tranh cãi nhiều nhất.

AbbVie đã dựng lên “bức tường bản quyền” vững chãi bao gồm cả những thứ như quá trình sản xuất thuốc, và ngăn không cho các phiên bản rẻ hơn của Humira vào thị trường Mỹ ngay cả khi giá thuốc này đã giảm từ nhiều năm trước tại châu Âu.

Chiến lược đó đã trở thành mỏ vàng cho AbbVie. Trong vòng 20 năm qua Humira đã tạo ra hơn 208 tỉ USD doanh thu trên toàn cầu trong suốt vòng đời của nó kể từ khi được phê chuẩn lần đầu năm 2002, theo Wall Street Journal.

Tuy nhiên AbbVie không “phát minh” ra những chiến lược kéo dài bản quyền đó. Các công ty như Bristol Myers Squibb và AstraZeneca đã triển khai chiêu thức tương tự để tối đa hóa lợi nhuận với các thuốc trị ung thư, điều trị lo âu và ợ nóng. Dù vậy thành công của Abbvie với Humira vẫn là hiện tượng nổi bật trong việc áp dụng chiến lược đó và “truyền cảm hứng” cho nhiều công ty khác.

Cũng như AbbVie, Merck rất sốt sắng với việc kéo dài vòng đời bảo hộ cho thuốc của họ bằng mọi cách. Mặc dù các bằng sáng chế chủ yếu của thuốc điều trị ung thư Keytruda sẽ hết hạn vào năm 2028, song Merck và các đối tác của họ đã nộp hồ sơ đăng ký bản quyền cho 180 bằng sáng chế bổ sung liên quan tới nhiều phương diện khác nhau của thuốc đó.

“Tôi không biết chúng ta có phải chứng kiến hiện tượng này trong tương lai nhiều như những gì đã thấy trong 10 năm qua không” – Phipps bình luận với trang tin Quartz.

Hẳn nhiên chiến lược đăng ký bản quyền “búa xua” này không lọt qua mắt của các nhà làm chính sách. Năm ngoái, Thượng nghị sĩ Elizabeth Warren đã viết thư cho người đứng đầu Văn phòng Sáng chế và nhãn hiệu Mỹ, cáo buộc Merck cố tình kéo dài thế độc quyền bằng việc nộp hơn 100 bằng sáng chế liên quan tới thuốc của họ.

Tháng 4 năm nay, Ủy ban Thương mại Liên bang Mỹ (FTC) đã lần thứ hai chất vấn tính đúng đắn của cái mà họ gọi là “các bằng sáng chế rởm”, hay việc đăng ký bản quyền không phù hợp, trong Sách cam (Orange Book) – tài liệu chính thức liệt kê các thuốc được Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm (FDA) Mỹ phê chuẩn.

Nhưng chưa hết, chiến lược khai thác pháp lý còn có việc kết hợp các loại thuốc đã có rồi đăng ký bản quyền cho những công thức mới đó. Hãng Bristol Myers Squibb đã áp dụng chiến lược này để chuẩn bị cho việc nhiều loại thuốc chủ lực của họ, trong đó có loại bán chạy nhất là thuốc trị ung thư hắc tố da Opdivo sẽ hết bản quyền vào năm 2028.

Chỉ tính riêng trong năm 2023, Opdivo đã đóng góp tới 20% trong tổng doanh thu 45 tỉ USD theo năm của công ty. Chính vì thế, từ năm 2022, BMS đã tung ra thuốc Opdualag – một sự kết hợp của Opdivo với kháng thể relatlimab-rmbw. “Đó thuần túy là một kỹ thuật kéo dài thời hạn bản quyền” – Phipps bình luận.

Dù vậy, doanh thu từ thuốc Opdualag cũng đã tăng vọt 72% theo năm trong quý đầu năm nay, đạt 206 triệu USD. Tương tự, hãng Merck cũng đang hy vọng một vài trong số hàng ngàn cuộc thử nghiệm lâm sàng kết hợp các thuốc điều trị ung thư với Keytruda sẽ cho kết quả thành công, từ đó giúp mở rộng vòng đời cho thuốc đó.

Sau khi đã “vắt kiệt sữa” từ “con bò bản quyền”, các Big Pharma sẽ tìm nguồn doanh thu bù đắp từ việc tăng cường đầu tư vào các loại thuốc mới. AbbVie vẫn là ví dụ điển hình trong việc áp dụng chiến lược này.

Humira chính thức hết độc quyền ở Mỹ vào năm ngoái khi có tới 9 sản phẩm biosimilar trên thị trường. Nhờ đã chuẩn bị và triển khai một vài loại thuốc có tiềm năng “bom tấn” mấy năm trước đó, AbbVie có thể bù đắp tốt nguồn thu sụt giảm mạnh từ Humira (giảm 32%).

Cụ thể, hãng thu 2 tỉ USD trong quý 1-2024 từ thuốc điều trị bệnh vảy nến thể mảng Skyrizi (ra mắt 2018) và 1,1 tỉ USD từ thuốc điều trị viêm khớp dạng thấp Rinqov (2019).

Đầu năm nay, lãnh đạo AbbVie ước tính hai loại thuốc kháng viêm mới của họ (Skyrizi và Rinvoq) sẽ mang lại doanh thu tổng cộng khoảng 16 tỉ USD trong năm nay. Tới năm 2027, công ty dự tính con số đó sẽ tăng lên 27 tỉ USD, vượt qua cả doanh thu của Humira vào thời đỉnh cao của nó.

Tương tự, trong bối cảnh bản quyền Keytruda sẽ hết hạn vào năm 2028, có lẽ không ngẫu nhiên khi năm nay Merck tung ra Winrevair, loại thuốc dành cho người trưởng thành bị cao huyết áp trong các động mạch phổi. Khoảng 1% dân số toàn cầu mắc chứng này.

Trong khi đó, hãng công nghệ sinh học Regeneron cũng đã nỗ lực để thuyết phục người bệnh chuyển sang dùng phiên bản liều cao hơn của Eylea – loại thuốc tiêm “bom tấn” chuyên trị thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (thể ướt).

Việc kéo người bệnh sang sử dụng thuốc mới như vậy sẽ giúp công ty chặn bớt ảnh hưởng của các loại thuốc sao chép công thức của thuốc cũ đã hết bản quyền.

Nguồn: Báo Tuổi Trẻ

Giới thiệu về STELLAPHARM

STELLAPHARM là một trong những công ty dược phẩm hàng đầu về thuốc generic tại Việt Nam. Chúng tôi chuyên biệt vào các loại thuốc điều trị bệnh mãn tính (bệnh tim mạch, tiểu đường, bệnh thấp khớp, các thuốc chống ung thư và điều hòa miễn dịch, các bệnh hô hấp, tiết niệu, các thuốc điều trị nội tiết toàn thân,…). Sản phẩm của STELLAPHARM đang được sử dụng bởi hàng triệu bệnh nhân tại hơn 50 nước trên thế giới.

Công ty được chứng nhận toàn cầu về chất lượng thông qua việc các nhà máy sản xuất của công ty đã được thanh tra và phê duyệt bởi các cơ quan có thẩm quyền như Cơ quan Quản lý thuốc Châu Âu (EMA), cục Dược phẩm và thiết bị Y tế Nhật Bản (PMDA), cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Đài Loan (Taiwan FDA), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), các tổ chức và cơ quan khác.

Để biết thêm thông tin về bài viết:
Công ty TNHH Liên Doanh Stellapharm – Chi nhánh 1 | 40 Đại lộ Tự Do, VSIP, P. An Phú, Thành phố Thuận An, Bình Dương
T: +84 274 376 7470 | F: +84 274 376 7469 | E: info@stellapharm.com | W: www.stellapharm.com

You May like

24 07/2024

KIỂM SOÁT THUỐC BẢO HIỂM Y TẾ

Dùng thuốc giá rẻ để giảm chi phí, nhưng với một số nhóm bệnh lý, thuốc mới hiệu quả cao thì rất đắt tiền, khiến bài toán sử dụng an toàn, hợp lý, hiệu quả luôn đòi hỏi người bệnh, bác sỹ điều trị và cơ quan quản lý quỹ phải có phương án tối

02 07/2024

STELLAPHARM TỰ HÀO ĐÓNG GÓP CHO NGÀNH SẢN XUẤT DƯỢC PHẨM NƯỚC NHÀ – KHẲNG ĐỊNH VỊ THẾ TỪ ÂU SANG Á

Trải qua hơn 2 thập kỷ hình thành và phát triển, Công ty TNHH Liên doanh Stellapharm đã và đang là một trong số ít các doanh nghiệp dược Việt Nam có các sản phẩm được xuất khẩu ra thị trường quốc tế.   Với nhà máy đạt tiêu chuẩn EU- GMP được cấp bởi

07 12/2023

MỤC TIÊU SẢN XUẤT DƯỢC PHẨM GIÁ TRỊ CAO TRONG THỜI ĐẠI Y TẾ SỐ

Theo Báo cáo nghiên cứu ngành Dược Việt Nam, tính đến năm 2020, ngành Dược Việt Nam đã đạt khoảng 6,4 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng kép hằng năm đạt 6% vào giai đoạn 2018 – 2020. Sau đó, tốc độ tăng trưởng chậm lại do dại dịch và thu nhập của người lao

11 07/2024

THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ DƯỢC PHẨM

Liên quan đến chính sách quản lý và phát triển công nghiệp dược, Bộ Y tế đang xây dựng dự thảo sửa đổi luật Dược 2016 với các điểm mới phù hợp với thực tế phát triển. Luật Dược 2016 tập trung cho tăng cường việc tự cung, tự cấp thiết yếu cho công tác

19 02/2024

VÌ SAO NGƯỜI BỆNH KHÓ TIẾP CẬN THUỐC MỚI?

Chỉ 42 thuốc mới trong 460 loại được lưu hành trên toàn cầu có mặt ở Việt Nam, do thủ tục và thời gian cấp phép kéo dài, gây ảnh hưởng người bệnh. Hôm 21/01/2024, đại diện Bộ Y tế cho biết giá biệt dược gốc tại Việt Nam ở mức thấp so các nước