Cảnh báo đặc biệt
- Việc điều trị suy tim mạn ổn định với bisoprolol phải bắt đầu với một giai đoạn chỉnh liều đặc biệt.
- Đặc biệt ở những bệnh nhân thiếu máu cơ tim cục bộ, không được đột ngột ngừng điều trị bằng bisoprolol trừ khi có chỉ định rõ ràng, vì điều này có thể làm tình trạng suy tim nặng hơn.
Thận trọng
Bisoprolol phải được sử dụng thận trọng cho những bệnh nhân tăng huyết áp hoặc đau thắt ngực có kèm theo suy tim.
Việc bắt đầu và ngừng điều trị suy tim mạn tính ổn định bằng bisoprolol phải được theo dõi thường xuyên.
Chưa có kinh nghiệm sử dụng bisoprolol trong điều trị suy tim ở những bệnh nhân có các bệnh và tình trạng sau:
– Đái tháo đường phụ thuộc insulin (týp 1).
– Suy chức năng thận nặng.
– Suy chức năng gan nặng.
– Bệnh cơ tim hạn chế.
– Bệnh tim bẩm sinh.
– Bệnh van tim thực thể có liên quan đến huyết động học.
– Nhồi máu cơ tim trong vòng 3 tháng.
– Nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ nếu ngừng điều trị đột ngột ở những bệnh nhân bệnh mạch vành.
Bisoprolol phải được dùng thận trọng trong:
- Co thắt phế quản (hen phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD)): Mặc dù các thuốc chẹn beta chọn lọc trên tim (beta-1) có thể có ít tác động lên chức năng phổi hơn các thuốc chẹn beta không chọn lọc, cũng như với tất cả các thuốc chẹn beta, nên tránh sử dụng những thuốc này ở những bệnh nhân bị bệnh tắc nghẽn đường thở, trừ khi có các lý do lâm sàng bắt buộc cần sử dụng. Trong trường hợp đó, bisoprolol nên được dùng thận trọng. Ở những bệnh nhân tắc nghẽn đường thở nên dùng bisoprolol với liều thấp nhất có thể và bệnh nhân nên được theo dõi cẩn thận các triệu chứng mới (như khó thở, không chịu được sự gắng sức, ho). Các trường hợp hen phế quản hoặc các bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, mà có thể gây ra triệu chứng, cần phối hợp điều trị giãn phế quản. Thỉnh thoảng có thể xảy ra sự gia tăng đề kháng đường thở ở những bệnh nhân hen suyễn, do đó cần tăng liều thuốc chủ vận beta-2.
- Đái tháo đường có mức glucose huyết thay đổi bất thường: Các triệu chứng hạ glucose huyết có thể bị che lấp (như nhịp tim nhanh, đánh trống ngực hoặc tiết mồ hôi).
- Nhịn ăn nghiêm ngặt.
- Đang trong liệu pháp giải mẫn cảm: Như những thuốc chẹn beta khác, bisoprolol có thể tăng cả tính nhạy cảm với các chất gây dị ứng và mức độ nghiêm trọng của các phản ứng phản vệ. Điều trị với epinephrine không phải lúc nào cũng mang đến hiệu quả điều trị mong muốn.
- Blốc nhĩ thất độ I.
- Đau thắt ngực Prinzmetal: Các trường hợp co thắt mạch vành đã được quan sát thấy. Mặc dù có tính chọn lọc thụ thể beta-1 cao, không thể loại trừ hoàn toàn các cơn đau thắt ngực khi dùng bisoprolol ở bệnh nhân đau thắt ngực Prinzmetal.
- Bệnh tắc nghẽn động mạch ngoại biên: Các triệu chứng có thể trầm trọng hơn đặc biệt là khi bắt đầu điều trị.
- Gây mê toàn thân: Đối với những bệnh nhân gây mê toàn thân, thuốc chẹn beta giúp giảm nguy cơ loạn nhịp tim và thiếu máu cục bộ cơ tim trong giai đoạn dẫn mê, đặt nội khí quản và trong giai đoạn hậu phẫu. Hiện nay khuyến cáo nên tiếp tục duy trì thuốc chẹn beta trong giai đoạn chu phẫu. Bác sĩ gây mê phải được thông báo trong trường hợp bệnh nhân cần gây mê có sử dụng thuốc chẹn beta do nguy cơ tương tác với các thuốc khác, làm nhịp tim chậm, làm giảm phản xạ tăng nhịp tim và giảm khả năng phản xạ để bù lại sự mất máu. Nếu cần thiết phải ngưng sử dụng thuốc chẹn beta trước khi phẫu thuật, nên giảm liều dần dần và kết thúc khoảng 48 giờ trước khi gây mê.
- Bệnh nhân bị bệnh vẩy nến hoặc có tiền sử mắc bệnh vẩy nến: Chỉ nên dùng thuốc chẹn beta (như bisoprolol) sau khi cân nhắc cẩn thận lợi ích và nguy cơ.
- Ở những bệnh nhân bị u tủy thượng thận chỉ nên sử dụng bisoprolol sau khi chẹn thụ thể alpha.
- Khi điều trị bằng bisoprolol, các triệu chứng của nhiễm độc giáp có thể bị che lấp.
- Không phối hợp bisoprolol với các thuốc chẹn kênh calci loại verapamil hoặc diltiazem, các thuốc chống loạn nhịp nhóm I và với các thuốc chống tăng huyết áp tác dụng lên hệ thần kinh trung ương.
- Không khuyến cáo dùng bisoprolol trong suốt thai kỳ và trong thời gian cho con bú.
- Trong một nghiên cứu ở những bệnh nhân bị bệnh mạch vành, bisoprolol không làm ảnh hưởng đến khả năng lái xe. Tuy nhiên, do phản ứng có thể xảy ra khác nhau ở mỗi cá thể nên khả năng lái xe hoặc vận hành máy móc có thể bị ảnh hưởng. Cần lưu ý đến khả năng này khi bắt đầu điều trị, khi thay đổi liều cũng như khi có uống rượu.